Thoát vị hoành ở thai nhi là sự mất liên tục cơ hoành dẫn đến các tạng trong ổ bụng thoát vị vào lồng ngực. Gây chèn ép đưa đến suy hô hấp, thiểu sản phổi, cao áp phổi, tỉ lệ tử vong cao. Vì vậy, việc phát hiện sớm là vô cùng quan trọng.
1. Tổng quan thoát vị hoành bẩm sinh
Thoát vị hoành là bệnh lý tổn thương của cơ hoành, qua đó các tạng trong ổ bụng di chuyển lên khoang lồng ngực qua các lỗ của cơ hoành. Thoát vị hoành có thể là bệnh lý bẩm sinh hoặc mắc phải. Bệnh lý bẩm sinh này thường được phát hiện trong thời kỳ bào thai hoặc lúc trẻ còn nhỏ.
Thoát vị qua lỗ sau bên chiếm đến 95% trường hợp bẩm sinh. Loại thoát vị hoành bẩm sinh được Victor Alexander Bochdalek báo cáo lần đầu tiên vào năm 1848, do đó bệnh lý này còn được gọi với tên thoát vị Bochdalek.
Trẻ mắc thoát vị hoành bẩm sinh thường kèm với suy hô hấp ở nhiều mức độ khác nhau. Vì phổi và mạch máu phổi bên thoát vị hoành kém phát triển.
2. Nguyên nhân thoát vị hoành bẩm sinh
Thoát vị cơ hoành có từ 10 – 15% liên quan bất thường về nhiễm sắc thể. Chủ yếu là Trisomi 18, 21 (Hội chứng Edwards, hội chứng Down). Do đó, khi phát hiện thoát vị cơ hoành trên siêu âm thì nên có chỉ định chọc ối làm nhiễm sắc thể đồ thai nhi.
Thoát vị cơ hoành có thể là đơn độc, cũng có thể phối hợp cùng các dị tật khác như trong hội chứng Fryns, hội chứng Pallister – Killian, hội chứng Beckwith – Wieddermann…
Việc phát hiện thoát vị cơ hoành ở thời điểm trước sinh là rất quan trọng. Nó liên quan đến vấn đề “sống còn” của trẻ khi ra đời. Vì sự chèn ép của các tạng (dạ dày, ruột, gan…) nằm trong khoang lồng ngực đối với các tạng khi đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ đã xảy ra. Lúc trẻ ra đời sự “chèn ép” này còn “dữ dội” hơn. Lí do là áp lực âm tính trong khoang lồng ngực ở mỗi thì hô hấp của bé với hệ thống hô hấp, tuần hoàn còn chưa kịp “thích nghi”). Đây chính là nguyên nhân gây tử vong nhanh chóng đối với những đứa trẻ mắc bệnh.
3. Dấu hiệu thoát vị hoành bẩm sinh
Tuỳ thuộc vào khuyết một phần hay toàn bộ cơ hoành mà có các biểu hiện khác nhau. Bệnh nhân có dấu hiệu suy hô hấp: Thở nhanh, tím tái, có thể xảy ra sớm ngay sau sinh hoặc vài giờ sau sinh. Thậm chí xảy ra muộn hơn với tình trạng viêm phổi tái phát.
Thăm khám ngực thấy: Rì rào phế nang giảm một bên, tiếng nhu động ruột trong lồng ngực, tiếng tim ở mỏm tim lệch phải.
Hình ảnh chụp X-quang phổi thấy có bóng hơi dạ dày hay ruột trong lồng ngực, trung thất bị đẩy về bên đối diện, không thấy vòm hoành. Siêu âm ngực bụng thấy hình ảnh một số cơ quan trong ổ bụng nằm trong lồng ngực. Siêu âm tim cho thấy tim lệch phải. Đánh giá áp lực động mạch phổi, tìm dị tật tim bẩm sinh phối hợp.